Đáp ứng các yêu cầu về trình độ tiếng Anh của các đại học tại New Zealand. Thông thường, các ứng viên cần phải làm các bài kiểm tra ngôn ngữ như IELTS hay TOEFL. Và hầu hết các tổ chức giáo dục tại đây đều yêu cầu chứng chỉ IELTS cho bậc sau đại học với mức điểm tối thiểu là 6.5.
Đáp ứng các yêu cầu về trình độ tiếng Anh của các đại học tại New Zealand. Thông thường, các ứng viên cần phải làm các bài kiểm tra ngôn ngữ như IELTS hay TOEFL. Và hầu hết các tổ chức giáo dục tại đây đều yêu cầu chứng chỉ IELTS cho bậc sau đại học với mức điểm tối thiểu là 6.5.
New Zealand không chỉ là một quốc đảo xinh đẹp với nhiều cảnh quan thơ mộng thu hút bao du khách quốc tế. Nơi đây còn là điểm đến hấp dẫn của rất nhiều du học sinh bởi nền giáo dục có chất lượng cao. Đáp ứng lượng lớn nhu cầu của sinh viên quốc tế, chính phủ New Zealand đã cung cấp rất nhiều học bổng dành cho mọi đối tượng đang có nguyện vọng theo học tại đây. Trong số đó, New Zealand-ASEAN Scholar Awards là một học bổng nổi bật và rất phù hợp cho sinh viên Việt Nam.
Học bổng New Zealand-ASEAN Scholar Awards là học bổng dành cho sinh viên quốc tế đến từ các nước Đông Nam Á muốn theo học bậc sau đại học tại New Zealand. Chương trình hỗ trợ giáo dục này được thiết lập với mục đích công nhận mối quan hệ chặt chẽ về văn hóa, kinh tế và địa lý của New Zealand với các nước trong khu vực Đông Nam Á.
Học bổng New Zealand-ASEAN Scholar Awards hỗ trợ Đông Nam Á
Học bổng sẽ hỗ trợ tài chính cho các cá nhân có kiến thức, kỹ năng và trình độ và có nguyện vọng muốn đóng góp và cống hiến sức mình vào sự phát triển kinh tế, xã hội và chính trị của nước nhà. Học bổng New Zealand-ASEAN Scholar Awards được tài trợ bởi New Zealand Aid Programme và chương trình viện trợ và phát triển quốc tế của Chính phủ New Zealand.
Những ứng viên khi đáp ứng đủ điều kiện nhận học bổng sẽ được nhận được một loạt quyền lợi. Bao gồm những khoản phí thực tế như:
Bên cạnh những quyền lợi hấp dẫn đó, đạt được Học bổng New Zealand-ASEAN Scholar Awards cũng là cơ hội để bạn được tiếp cận với những kiến thức chuyên ngành được chắt lọc tinh túy và một hệ thống cơ sở vật chất lượng cao. Ngoài ra, du học tại New Zealand cũng cho bạn cảm giác một môi trường học tập đa văn hóa, tôn trọng sự khác biệt trong màu sắc và bản ngã của mỗi cá nhân.
Trải nghiệm sự đa văn hóa khi học tại New Zealand
Để Download MIỄN PHÍ file PDF sách Nutrition in Clinical Practice Fourth Edition, mời bạn đọc CLICK TẠI ĐÂY.
PHẦN 1: Chuyển hóa chất dinh dưỡng có liên quan về mặt lâm sàng
PHẦN 2: Quản lý dinh dưỡng trong thực hành lâm sàng: Chế độ ăn uống, bệnh tật và sức khỏe
PHẦN 3: Các chủ đề đặc biệt về dinh dưỡng lâm sàng
PHẦN 5: Tăng cường chế độ ăn uống và sức khỏe: Thiết lập chủ đề về dinh dưỡng thận trọng
PHẦN 6: Nguyên tắc tư vấn chế độ ăn uống hiệu quả
PHẦN 7: Các chủ đề đương đại về dinh dưỡng
Nutrition in Clinical Practice Fourth Edition tạm dịch sang Tiếng Việt là Dinh dưỡng trong Thực hành Lâm sàng phiên bản thứ 4. Cuốn sách này được thiết kế dành cho các bác sĩ lâm sàng bận rộn đang nỗ lực giải quyết vấn đề quan trọng về dinh dưỡng cho bệnh nhân của họ. Dinh dưỡng trong Thực hành Lâm sàng chuyển cơ sở bằng chứng vững chắc về dinh dưỡng trong sức khỏe và bệnh tật thành hướng dẫn lâm sàng dựa trên bằng chứng, có thể áp dụng được về một loạt các chủ đề dinh dưỡng. Trong phiên bản thứ 4 sửa đổi bao gồm đầy đủ các ứng dụng dinh dưỡng trong thực hành lâm sàng, mở rộng tăng cường sức khỏe, sửa đổi yếu tố nguy cơ, phòng ngừa, quản lý bệnh mãn tính và kiểm soát cân nặng, đặc biệt nhấn mạnh vào việc cung cấp các tóm tắt chính xác, các bước hành động trong quy trình làm việc lâm sàng.
Đầu tiên trong số các nguyên tắc mà cuốn sách này đề cập đến là sự phù hợp về mặt lâm sàng. Nếu tài liệu dường như có ích cho việc bác sĩ lâm sàng tương tác với bệnh nhân thì tài liệu đó sẽ được đưa vào. Nếu một ứng dụng có vẻ xa vời hoặc nếu tài liệu không hỗ trợ sự hiểu biết có thể nâng cao sự trao đổi thì nó sẽ bị loại bỏ. Phạm vi chủ đề dinh dưỡng liên quan đến chăm sóc lâm sàng khá rộng.
Nguyên tắc thứ hai chi phối việc biên soạn văn bản này là tính nhất quán trong việc áp dụng. Trong cuốn sách này, các trạng thái sức khỏe và bệnh tật, cùng các yếu tố cơ bản thúc đẩy chúng được sắp xếp trong các cột và hàng tương ứng. Trên thực tế, những trạng thái này cùng tồn tại ở những bệnh nhân đơn lẻ, thường rất phức tạp. Do đó, các khuyến nghị về dinh dưỡng dành riêng cho từng bệnh thường có ít hữu ích trên lâm sàng. Ngược lại, nếu các khuyến nghị về chế độ ăn uống không bao giờ thay đổi để phù hợp với các tình trạng sức khỏe và mục tiêu lâm sàng khác nhau, thì một cuốn sách gồm nhiều chương dường như là một nỗ lực quá mức để mô tả bộ hướng dẫn thống nhất này.
Nguyên tắc thứ ba là để được sử dụng, tài liệu dành cho ứng dụng lâm sàng phải được mô tả dưới dạng mức độ, tính nhất quán và chất lượng của bằng chứng cơ bản. Đây có thể được coi là một văn bản về y học dựa trên bằng chứng, với tài liệu được xem xét trong mỗi chương được coi là đại diện cho bằng chứng sơ bộ, gợi ý hoặc dứt khoát về bất kỳ mối liên hệ nào được mô tả.
Nguyên tắc thứ tư, liên quan đến nguyên tắc thứ ba, là để hiểu rõ một chủ đề được xem xét kỹ lưỡng, nó phải được xem xét một cách tổng thể (hoặc một số gần đúng). Có một rủi ro khi mỗi chuyên gia trong số nhiều chuyên gia trình bày chi tiết về một khía cạnh cụ thể của dinh dưỡng liên quan đến sức khỏe. Nguy cơ đó có lẽ chưa bao giờ được thể hiện rõ ràng hơn trong bài thơ ngụ ngôn Người mù và con voi của John Godfrey Saxe. Ví dụ, tôi đã bị thuyết phục rằng tình trạng thiếu axit béo n-3 trên danh nghĩa có thể phổ biến ở Hoa Kỳ và góp phần gây ra những hậu quả bất lợi cho sức khỏe. Kết luận này được đưa ra ít dựa trên cơ sở bằng chứng chắc chắn trong bất kỳ lĩnh vực nào mà dựa trên cơ sở bằng chứng rất nhất quán và phong phú trong tổng thể, xuyên suốt nhiều chủ đề. Chỉ một tác giả, khi lần lượt trải qua từng chương trong số nhiều chương, mới có thể truyền đạt đặc điểm của từng chủ đề bằng sự hiểu biết rút ra từ những chủ đề khác. Vì tôi không thể tranh cãi về những bất lợi tiềm tàng của quyền tác giả độc thân, thay vào đó tôi đã tìm cách tận dụng tối đa mọi lợi thế tiềm ẩn. Do đó, tôi đã thoải mái chia sẻ những hiểu biết sâu sắc mà tôi đã thu được khi xem xét tuần tự rất nhiều chủ đề, cố gắng luôn làm rõ nguồn gốc quan điểm của tôi và bản chất của bằng chứng.
Nguyên tắc cuối cùng mà cuốn sách này đề cập đến là quan điểm cho rằng cần phải có một mô hình lý thuyết trong đó có thể giải mã được mối tương tác phức tạp giữa hành vi con người, thực phẩm và sức khỏe. Cũng giống như cách mà các bằng chứng thống nhất đã đưa tôi đến những khuyến nghị cụ thể về quản lý dinh dưỡng, tôi đã trải qua quá trình nghiên cứu này và bị thuyết phục về tính hữu ích của mô hình sinh học tiến hóa đối với hành vi ăn uống của con người. Lập luận này được trình bày chi tiết ở Chương 39. Hành vi và sinh lý của tất cả các loài động vật phần lớn bị chi phối bởi môi trường mà chúng thích nghi; có cả lý do và bằng chứng cho thấy rằng, về mặt dinh dưỡng, điều này cũng đúng với chúng ta.