Dấu Hiệu Tự Kỷ Ở Người Lớn

Dấu Hiệu Tự Kỷ Ở Người Lớn

SKĐS - Chị gái tôi sinh cháu được hơn 2 năm nhưng bé có biểu hiện chậm nói, không chú ý đến các phản xạ, đi khám các bác sĩ chẩn đoán bé bị tự kỷ.

SKĐS - Chị gái tôi sinh cháu được hơn 2 năm nhưng bé có biểu hiện chậm nói, không chú ý đến các phản xạ, đi khám các bác sĩ chẩn đoán bé bị tự kỷ.

Mời độc giả xem thêm video đang được quan tâm:

Mối nguy hại khi trẻ em xem tivi quá nhiều và cách khắc phục

Ái kỷ (narcissism) là “thói quen đánh giá quá cao bản thân, đặc biệt là về ngoại hình”. Tuỳ vào lĩnh vực được bàn luận mà ái kỷ có thể mang ý nghĩa và mức độ khác nhau. (Theo từ điển Oxford định nghĩa)

Thuyết phổ biến nhất về nguồn gốc của cái tên ‘narcissism' bắt nguồn từ thần thoại Hy Lạp. Câu chuyện kể về chàng Narcissus có dung mạo tuấn tú, nhưng lại không thể yêu ai. Một ngày nọ thấy bóng mình trên mặt nước, chàng đã say mê bản thân đến mức héo mòn. (Theo Psychology Today)

Ở góc độ tâm lý học, ái kỷ có tên cụ thể là rối loạn nhân cách ái kỷ (Narcissistic Personality Disorder - NPD), được “một hình thức khuếch đại về bản thân trong trí tưởng tượng hoặc thể hiện qua hành vi, đòi hỏi người khác ca tụng và không có sự thấu cảm”.

Những ý thích bị thu hẹp thể hiện như:

Cuốn hút nhiều giờ xem ti vi quảng cáo, luôn cầm nắm một thứ trong tay như bút, que, tăm, giấy, chai lọ, đồ chơi có mầu ưa thích hoặc có độ cứng mềm khác nhau.

Không có sự cảm thông với người khác

Dù luôn phủ định sai lầm của mình, người ái kỷ lại rất nhanh nhạy trong việc chỉ ra khuyết điểm hoặc đổ lỗi cho người khác. Nói như vậy, không có nghĩa là người ái kỷ không biết thấu cảm. Chính xác hơn, họ không có đủ năng lực để bày tỏ điều ấy. Đôi khi, khả năng bày tỏ sự thấu cảm đã bị vùi lấp bởi bức tường mà người ái kỷ dựng lên để bảo vệ hình ảnh và cái tôi của mình.

Tạo ra hình ảnh sai sự thật về mình

Mặc dù vô cùng tự ti, nhưng người ái kỷ lại luôn muốn được người khác thán phục. Do đó, họ phải che giấu con người ấy bằng cách dựng lên một hình ảnh khác với bản thân mình, tạm gọi là "cái tôi giả" (false-self).

Độ phủ sóng của mạng xã hội đã khiến tình trạng này càng thêm nghiêm trọng. Không dừng lại ở việc làm mọi thứ để gây sự chú ý trên mạng, người ái kỷ còn xem việc bắt nạt trực tuyến (cyberbullying) là một cách để thể hiện sức mạnh của mình.

‎6. 1. Phân loại bệnh tự kỷ ở trẻ:

Phân loại theo thể lâm sàng, có 5 thể:

- Tự kỷ điển hình (tự kỷ Kanner): Bao gồm các dấu hiệu bất thường trong những lĩnh vực: Tương tác xã hội, chậm hoặc rối loạn ngôn ngữ giao tiếp, hành vi định hình cùng với những mối quan tâm bị thu hẹp, khởi phát trước 3 tuổi.

‎- Hội chứng Asperger (tự kỷ chức năng cao): Có các dấu hiệu kém tương tác xã hội nhưng vẫn có quan hệ với người thân, có khả năng nói được nhưng cách giao tiếp bất thường, không chậm phát triển nhận thức. Các dấu hiệu bất ‎thường xuất hiện sau 3 tuổi.

- Hội chứng Rett: Hầu như chỉ có trẻ gái bị mắc, sự thoái triển các kỹ năng ngôn ngữ, giao tiếp, tương tác, vận động xảy ra khi trẻ ở lứa tuổi 6 - 18 tháng, có những động tác định hình ở tay, vẹo cột sống, đầu nhỏ, chậm phát triển trí tuệ mức nặng.

- Rối loạn phân rã tuổi ấu thơ: Sự thoái lùi phát triển đáng kể xảy ra trước 10 tuổi về các kỹ năng: Ngôn ngữ, xã hội, kiểm soát đại tiểu tiện, kỹ năng chơi và vận động.

- Rối loạn phát triển lan tỏa không đặc hiệu: Có những dấu hiệu bất thường thuộc một trong 3 lĩnh vực của tự kỷ điển hình nhưng không đủ để chẩn đoán.

Không có thuốc đặc hiệu điều trị tự kỷ mà chỉ dùng thuốc điều trị một số triệu chứng kèm theo.

- Chương trình can thiệp sớm cho trẻ trước 5 tuổi bao gồm dạy trẻ và tư vấn cho gia đình.

- Có bằng chứng cho thấy phương pháp trị liệu hành vi tích cực cho trẻ ‎trước 3 tuổi đã có hiệu quả cải thiện về khả năng ngôn ngữ và chức năng xã hội sau này, can thiệp sớm tích cực 40 giờ/1 tuần trong 2 năm liên tục cho thấy trẻ có tiến bộ về nhận thức và hành vi.

- Giáo dục, huấn luyện và trợ giúp cho cha mẹ cần được tiến hành thường xuyên. Gia đình trẻ tự kỷ cùng tham gia dạy trẻ có vai trò quan trọng cho sự tiến bộ của trẻ và chăm sóc trẻ toàn diện.

- Trẻ tự kỷ vẫn cần được hỗ trợ về giáo dục thậm chí cả khi ngôn ngữ phát triển gần như bình thường. Dạy trẻ tại nhà theo chương trình cá biệt hóa, cung cấp cho trẻ thông tin thị giác, cấu trúc và dự đoán.

- Hệ thống giao tiếp bằng trao đổi tranh (PECS - Picture Exchanged Communication System) được áp dụng nhằm làm cho trẻ hiểu các bước của công việc, hiểu lịch trình, thể hiện nhu cầu và tăng khả năng tương tác.

‎- Những trẻ lớn và trẻ vị thành niên với trí tuệ khá cao nhưng kỹ năng xã hội nghèo nàn và có một số triệu chứng tâm thần như trầm cảm, lo âu, rối loạn ám ảnh nghi thức cần được điều trị tâm lý, hành vi nhận thức và bằng thuốc.

‎- Huấn luyện các kỹ năng xã hội có hiệu quả đặc biệt trong điều trị nhóm.

‎- Hiện không có thuốc đặc hiệu điều trị tự kỷ mà chỉ dùng thuốc điều trị một số triệu chứng kèm theo. Một số thuốc an thần kinh có tác động làm giảm ‎hành vi tăng động, cơn hờn giận, hung tính, tự gây thương tích, hành vi định ‎hình, rối loạn ám ảnh nghi thức.

Nguyên nhân của tự kỷ không liên quan đến sự xa cách tình cảm giữa trẻ với cha mẹ.

Người ái kỷ thường xuyên nói dối và phóng đại mọi chuyện

Người ái kỷ có thể nói dối về mọi thứ, chứ không dừng lại ở những vấn đề cá nhân. Họ thêu dệt những câu chuyện theo hướng có lợi cho mình, mục đích là để bảo vệ hình ảnh thể hiện ra bên ngoài. Điều này khác với người thao túng tinh thần (gaslighter) nói dối để thiết lập chủ quyền và sự kiểm soát.

Nếu người bình thường cảm thấy ‘tim đập, chân run’ khi nói dối, thì người ái kỷ lại xem đây là điều giúp họ lấy lại bình tĩnh. Họ thừa hiểu rằng mình đang lừa bịp, nhưng lại không có đủ nhận thức về hậu quả của việc này.

Nhiều trẻ có rối loạn cảm giác

Do nhận cảm thế giới xung quanh dưới ngưỡng hoặc trên ngưỡng. Một số trẻ có khả năng đặc biệt như trí nhớ thị giác không gian và trí nhớ máy móc rất tốt, bắt chước thao tác với đồ vật rất nhanh, nên dễ nhầm tưởng là trẻ quá thông minh.

Trẻ ít giao tiếp bằng mắt là những triệu chứng thường gặp ở bệnh tự kỷ .

Nguyên nhân gây bệnh tự kỷ ở trẻ

Nguyên nhân của tự kỷ vẫn chưa được xác định, nhưng được cho là do đa ‎yếu tố với vai trò chính là di truyền. Nhiều gen bất thường kết hợp với sự tác ‎động một phần của yếu tố bất lợi do môi trường đã gây tự kỷ.

Tự kỷ điển hình và hội chứng Asperger gặp ở nam nhiều hơn ở nữ, nên được cho là có liên quan đến nhiễm sắc thể X. Trẻ tự kỷ cũng thường có những rối loạn thần kinh khác. Nguyên nhân của tự kỷ không liên quan đến sự xa cách tình cảm giữa trẻ với cha mẹ. Nhiều nghiên cứu xác định không có bằng chứng ‎về mối liên quan giữa tự kỷ với tiêm vaccine.

Tự kỷ được cho là bệnh lý của não do rối loạn phát triển thần kinh.

Người ái kỷ không bao giờ thừa nhận sai lầm và nổi nóng khi bị chỉ ra

"Anh dựa vào đâu mà nói tôi như thế?"

Những câu nói trên đi kèm với những hành động như đóng cửa thật mạnh, tỏ thái độ cáu gắt,... là những phản ứng thường thấy của người ái kỷ khi nhận lời phê bình của người khác.

Những người ái kỷ vô cùng tự ti. Chính vì vậy, họ ngay lập tức nổi đoá với bất kỳ ai muốn chỉ trích họ. Cách họ phản ứng lại luôn là gây hấn thụ động hoặc công kích cá nhân chứ nhất quyết không chịu trách nhiệm cho sai lầm của mình.